I. MỤC ĐÍCH ĐỀ KIỂM TRA GIỮA HỌC KÌ II
- Đây là đề thi giữa học kì II nhằm đánh giá năng lực môn Ngữ văn của học sinh lớp 11. Đề thi có thời gian làm bài là 60 phút với cấu trúc hai phần tương ứng với năng lực đọc hiểu và năng lực tạo lập văn bản.
- Đề thi có mục tiêu đánh giá các năng lực đọc và viết được mô tả trong bảng đặc tả đính kèm.
II. GIỚI HẠN NỘI DUNG KIỂM TRA:
- Phần đọc hiểu thể loại truyện ngắn. Tạo lập văn bản nghị luận về một vấn đề xã hội trong tác phẩm văn học.
III. HÌNH THỨC ĐỀ KIỂM TRA
- Tự luận 100%
- Thời gian: 60 phút (không kể thời gian phát đề)
- Không sử dụng tài liệu
IV. THIẾT LẬP MA TRẬN ĐỀ KIỂM TRA MÔN NGỮ VĂN GIỮA KÌ II KHỐI 11 - THỜI GIAN LÀM BÀI: 60 PHÚT
TT
|
Kĩ năng
|
Nội dung/đơn vị kiến thức
|
Mức độ nhận thức
|
Tổng
% điểm
|
Nhận biết
|
Thông hiểu
|
Vận dụng
|
Vận dụng cao
|
TNKQ
|
TL
|
TNKQ
|
TL
|
TNKQ
|
TL
|
TNKQ
|
TL
|
1
|
Đọc hiểu
|
Đọc hiểu truyện ngắn
|
0
|
1.0
|
0
|
2.5
|
0
|
1,5
|
0
|
|
50
|
2
|
Viết
|
Viết một văn bản nghị luận về một vấn đề xã hội trong tác phẩm văn học (truyện ngắn trên phần đọc hiểu)
|
0
|
1*
1.5
|
0
|
1*
1.5
|
0
|
1*
1.0
|
0
|
1*
1.0
|
50
|
Tổng
|
0
|
2.5
|
0
|
4,0
|
0
|
2,5
|
0
|
1.0
|
100
|
Tỉ lệ %
|
25.0%
|
40.0%
|
25.0%
|
10.0%
|
Tỉ lệ chung
|
65%
|
35%
|
· Ghi chú: Phần viết có 01 câu bao hàm cả 4 cấp độ. Các cấp độ được thể hiện trong Hướng dẫn chấm.
BẢNG ĐẶC TẢ ĐỀ KIỂM TRA GIỮA HỌC KÌ II
MÔN: NGỮ VĂN LỚP 11 - THỜI GIAN LÀM BÀI: 60 PHÚT
TT
|
Chương/
Chủ đề
|
Nội dung/Đơn vị kiến thức
|
Mức độ đánh giá(1)
|
Số câu hỏi theo mức độ nhận thức
|
Nhận biết
|
Thông hiểu
|
Vận dụng
|
Vận dụng cao
|
1
|
Đọc hiểu
|
Đọc hiểu truyện ngắn
|
Nhận biết
- Nhận biết được người kể chuyện (ngôi thứ ba hoặc ngôi thứ nhất), lời người kể chuyện, lời nhân vật.
- Nhận biết được điểm nhìn, sự thay đổi điểm nhìn; sự nối kết giữa lời người kể chuyện và lời của nhân vật.
- Nhận biết được đề tài, câu chuyện, sự kiện, chi tiết tiêu biểu, không gian, thời gian, nhân vật.
|
1TL
|
|
|
|
Thông hiểu:
- Tóm tắt được cốt truyện và lí giải được ý nghĩa, tác dụng của cốt truyện.
- Phân tích, đánh giá được đặc điểm của nhân vật và vai trò của nhân vật với việc thể hiện chủ đề, tư tưởng của tác phẩm.
- Phân tích, lí giải được chủ đề, tư tưởng của tác phẩm.
- Phân tích, lí giải ý nghĩa chi tiết, tình huống, sự kiện tiêu biểu trong tác phẩm gắn với nhân vật chính - phụ và thể hiện được chủ đề, nhan đề tác phẩm, phong cách tác giả...
|
|
2TL
|
|
|
Vận dụng:
- Nêu được ý nghĩa hay tác động của văn bản tới quan niệm, cách nhìn của cá nhân với văn học và cuộc sống.
- Thể hiện thái độ đồng tình hoặc không đồng tình với các vấn đề đặt ra từ văn bản.
|
|
|
1TL
|
|
2
|
Viết
|
Viết một văn bản nghị luận về một vấn đề xã hội trong tác phẩm văn học (truyện ngắn trên phần đọc hiểu)
|
Nhận biết:
- Xác định được yêu cầu về nội dung và hình thức của bài văn nghị luận.
- Mô tả được vấn đề xã hội và những dấu hiệu, biểu hiện của vấn đề xã hội trong bài viết.
- Xác định rõ được mục đích, đối tượng nghị luận.
- Đảm bảo cấu trúc, bố cục của một văn bản nghị luận.
Thông hiểu:
- Giải thích được những khái niệm liên quan đến vấn đề nghị luận.
- Trình bày rõ quan điểm và hệ thống các luận điểm.
- Kết hợp được lí lẽ và dẫn chứng để tạo tính chặt chẽ, logic của mỗi luận điểm.
- Biết trình bày một vấn đề xã hội trong tác phẩm văn học.
- Nêu và phân tích, trao đổi về các ý kiến trái chiều.
- Bình luận về cách tác phẩm đặt ra và giải quyết vấn đề xã hội.
- Cấu trúc chặt chẽ, có mở đầu và kết thúc gây ấn tượng; sử dụng các lí lẽ và bằng chứng thuyết phục, chính xác, tin cậy, thích hợp, đầy đủ; đảm bảo chuẩn chính tả, ngữ pháp tiếng Việt.
Vận dụng:
- Đánh giá được ý nghĩa, ảnh hưởng của vấn đề đối với con người, xã hội.
- Nêu được những bài học, những đề nghị, khuyến nghị rút ra từ tác phẩm văn học và thực tiễn cuộc sống.
Vận dụng cao:
- Sử dụng kết hợp các phương thức miêu tả, biểu cảm, tự sự,… để tăng sức thuyết phục cho bài viết.
- Vận dụng hiệu quả những kiến thức Tiếng Việt lớp 11 để tăng tính thuyết phục, sức hấp dẫn cho bài viết.
|
1*
|
1*
|
1*
|
1*
1TL
|
Tổng
|
|
1TL
|
2TL
|
1TL
|
1TL
|
Tỉ lệ %
|
|
25
|
40
|
25
|
10
|
Tỉ lệ chung
|
|
65
|
35
|
· Ghi chú:
* Phần viết có 01 câu bao hàm cả 4 cấp độ. Các cấp độ được thể hiện trong Hướng dẫn chấm.
ĐỀ BÀI
I. ĐỌC HIỂU (5 ĐIỂM)
Đọc đoạn trích sau:
CƠM MÙI KHÓI BẾP (Hoàng Công Danh)
Bốn năm từ ngày lấy vợ, tết này anh mới đưa được cả vợ và con về quê. Từ Sài Gòn về miền Trung không hẳn quá xa, nhưng vì có đứa con nhỏ nên chuyện đi lại khó khăn. Mấy lần trước anh chỉ về một mình, dăm hôm lại trở vào. Lần này cả nhà mới được về quê, cho đứa con ăn tết quê nội lần đầu.
Bà mẹ ngoài sáu mươi đon đả chạy ra tận ngõ đón. Lưng bà đã bắt đầu cong hình đòn gánh. Tay phải bà cắp bồng đứa cháu nội, tay trái vẫn chèo móc thêm một túi xách. Đặt xong đồ đạc vào góc nhà, bà bảo: “Chắc bây đói bụng rồi, để mẹ đi nấu cơm cho ăn”. Cô con dâu còn mệt hơi xe đáp: “Chúng con ghé ăn trên thị xã rồi mới về đây”. Nói xong cô quay sang chồng: “Bún nuốt chả trôi nữa là cơm”.
Bà hơi chạnh lòng: “Về tới xứ mình rồi còn ăn chi dọc đường dọc sá cho tốn tiền. Thôi ra rửa ráy, để mẹ đi pha nước chanh cho bây uống. Chanh vườn nhà mình chứ không phải chanh Tàu đâu. Uống vô cái khỏe liền”.
[…]
Hôm sau bà lọ mọ dậy từ lúc trời chưa hửng sáng, nhóm lửa rơm bắc nồi cơm. Thằng cháu nội ba tuổi chạy xuống thấy khói bếp bốc ngùn ngùn, khiếp quá hét toáng lên: “Cháy nhà”. Anh chị đang ngủ giật mình vùng dậy. Anh bảo nhà đã có bếp gas, mẹ nấu gì thứ rơm đó nữa cho cực. Bà cười: “Tụi bây ăn cơm nồi cơm điện thành phố quen rồi, về quê mẹ nấu cơm lửa rơm cho thơm mùi đồng mùi rạ. Mà cơm nấu rơm mới có miếng cháy ăn giòn. Mấy hồi anh nhỏ, bữa ăn không có miếng cơm cháy là giãy nảy lên bướng bỉnh chẳng chịu ăn. Nhớ không?”.
[…]
Cô con dâu bảo: “Mẹ bày ra nấu bữa sáng làm gì cho cực. Chúng con ra quán ăn miếng là rồi việc”.
“Bây nói chi lạ. Ăn uống phải đàng hoàng chớ. Bữa sáng là quan trọng lắm. Không ai thương bằng cơm thương đâu con. Ăn cơm chắc bụng no lâu. Mấy cái thứ bún cháo nước õng ệu, chỉ nhoáng là đói lại liền à” – bà vừa san cơm ra chén vừa nói.
Ba chén cơm trắng, đĩa cá đồng kho nghệ. Anh háy mắt qua vợ ý bảo ăn đi, ăn lấy lòng mẹ một miếng. Chị lại háy mắt qua anh lắc đầu, có mà sức Thánh Gióng mới nuốt trôi. Thằng cu con nhìn chằm chằm chén cơm. Cuối cùng chỉ có anh trệu trạo làm được ba miếng, như là ăn tượng trưng cho mỗi người một miếng. Tranh thủ lúc mẹ đi ra giếng, anh lùa cả ba chén cơm trắng vào lại nồi.
Sáng hôm sau bà lại dậy sớm. Lại nhóm bếp rơm nấu cơm. Xong bữa nồi cơm không vơi được là mấy, vẫn đầy như lòng mẹ. Anh gắng ăn được nửa chén. Anh dối mẹ chở vợ con đi xem chợ tết, đi thăm thú làng quê, thực chất là để ghé quán cho vợ con ăn bún ăn cháo.
[…]
Chưa hết tết, mới ngày mùng bốn anh lại phải đưa vợ con vào Sài Gòn. Bà mẹ dậy sớm làm gà, nấu cơm. Vẫn một mình bà cặm cụi với cái bếp. Bà xúc đầy đơm cơm vào chiếc cà mèn. Gà luộc cho vào hộp đựng. “Bây đem lên xe mà ăn. Cơm dọc đường dọc sá không ngon đâu”.
Con cháu lên taxi rồi bà còn dặn theo: “Vào trong nhớ ăn uống đàng hoàng nghe bây. Đừng bỏ bữa sáng. Không ai thương bằng cơm thương”.
Vào tới Sài Gòn cà mèn cơm vẫn còn một nửa. Vợ định đem đi đổ. Anh can bảo để đấy, phơi khô cất giữ làm kỷ niệm.
***
Qua tháng ba nghe tin mẹ bệnh, anh tức tốc về nhà. Nằm trên giường, gặp con câu đầu tiên bà hỏi: “Con ăn chi chưa? Mẹ không bắc cơm được. Thôi ra đầu chợ ăn tạm. Bữa nào khỏe mẹ nấu cơm cho ăn. Tội nghiệp”.
Nhưng mẹ không khỏe nữa, yếu dần, được thêm hai bữa thì nhắm mắt.
Đưa mẹ ra đồng xong, về nhà nhìn chén cơm trắng đặt trên bàn thờ, anh thấy nhói lòng. Ân hận. Thế là hết cơ hội được ăn với mẹ một chén cơm sáng thật đầy, để nghe mẹ nói câu “không ai thương bằng cơm thương”.
Tiếc nuối. Thèm miếng cơm cháy mẹ nấu quá. Giòn và thơm, mùi hương đồng, mùi nước quê, cả mùi khói bếp. Chỉ có mẹ mới nấu được miếng cơm cháy ngon như thế.
Hôm lên đường vào Sài Gòn, anh dậy sớm nấu chén cơm đặt lên bàn thờ mẹ. Anh tự mình vo gạo, tự mình nhóm bếp rơm. Loay hoay một hồi. Bếp nhà đầy khói. Và khói…
(Cơm mùi khói bếp, Hoàng Công Danh, in trong Chuyến tàu vé ngắn, tập truyện ngắn, NXB Trẻ, TP. HCM, 2015, Tr. 49-54)
Chú thích:
Hoàng Công Danh sinh năm 1987, quê ở Quảng Trị, tốt nghiệp ngành Vật lí - Đại học Tổng hợp Quốc gia Belarus.Với văn phong nhẹ nhàng, Hoàng Công Danh đã lay động trái tim độc giả về những điều bình dị trong cuộc sống. Tác phẩm: Truyện ngắn “Cơm mùi khói bếp” in trong tập truyện Chuyến tàu vé ngắn, do NXB Trẻ ấn hành năm 2015.
Thực hiện các yêu cầu:
Câu 1. (1,0 điểm) Chỉ ra một đoạn văn có sự đan xen giữa lời của người kể chuyện và lời của nhân vật trong văn bản trên.
Câu 2. (1,0 điểm) Xác định ngôi kể và điểm nhìn trong văn bản. Cách sử dụng điểm nhìn, ngôi kể như vậy tạo ưu thế gì trong việc thể hiện nội dung câu chuyện?
Câu 3. (1,5 điểm) Chi tiết nào trong văn bản để lại ấn tượng sâu sắc nhất đối với em? Vì sao?
Câu 4. (1,5 điểm) Em có suy nghĩ gì về câu nói của người mẹ “Không ai thương bằng cơm thương”?
- VIẾT (5 ĐIỂM)
Hãy viết một bài văn nghị luận bàn về lối sống biết trân trọng những điều bình dị được gợi ra từ truyện ngắn Cơm mùi khói bếp của tác giả Hoàng Công Danh.
--- HẾT ---
HƯỚNG DẪN CHẤM MÔN NGỮ VĂN LỚP 11 GIỮA KÌ II
Phần
|
Câu
|
Nội dung
|
Điểm
|
I
|
|
ĐỌC HIỂU
|
5,0
|
|
1
|
- Đoạn văn có sự đan xen giữa lời của người kể chuyện và lời của nhân vật:
+ Qua tháng ba nghe tin mẹ bệnh, anh tức tốc về nhà. Nằm trên giường, gặp con câu đầu tiên bà hỏi: “Con ăn chi chưa? Mẹ không bắc cơm được. Thôi ra đầu chợ ăn tạm. Bữa nào khỏe mẹ nấu cơm cho ăn. Tội nghiệp”.
+ ...
- Lưu ý: Chấp nhận nhiều đáp án khác.
|
1,0
|
2
|
- Ngôi kể thứ 3
- Điểm nhìn ngôi thứ 3
- Tác dụng: Giúp câu chuyện được kể một cách khách quan, người đọc dễ dàng bao quát được nội dung câu chuyện.
Lưu ý: Ngôi kể (0,25 điểm); điểm nhìn (0,25 điểm), tác dụng (0,5 điểm)
|
1,0
|
3
|
- Học sinh chỉ ra được chi tiết để lại ấn tượng cho bản thân (0,5 điểm)
- Lí giải thuyết phục (1,0 điểm)
|
1,5
|
4
|
- Học sinh trình bày được suy nghĩ của bản thân về câu nói của người mẹ “Không ai thương bằng cơm thương”.
Gợi ý:
- Câu nói của người mẹ được lặp lại ba lần trong tác phẩm. Ban đầu người con trai không để tâm đến câu nói của người mẹ, khi mẹ mất đi rồi anh mới tiếc nuối vì không còn được nghe câu nói này nữa.
- Câu nói chất chứa tình yêu thương, sự quan tâm của người mẹ dành cho con.
Chấp nhận cách diễn đạt khác.
|
1,5
|
II
|
|
VIẾT
Hãy viết một bài văn nghị luận bàn về lối sống biết trân trọng những điều bình dị được gợi ra từ truyện ngắn Cơm mùi khói bếp của tác giả Hoàng Công Danh.
|
5,0
|
|
a. Đảm bảo cấu trúc bài nghị luận xã hội
Mở bài nêu được vấn đề, thân bài triển khai được vấn đề, kết bài kết luận được vấn đề
|
0,25
|
|
b. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận:
|
0,25
|
|
c. Triển khai vấn đề cần nghị luận
Học sinh có thể triển khai theo nhiều cách nhưng cần vận dụng tốt các thao tác lập luận, kết hợp chặt chẽ giữa lí lẽ và dẫn chứng; mọi kiến giải phải phù hợp với chuẩn mực đạo đức và pháp luật, đảm bảo các yêu cầu sau:
Mở bài:
+ Giới thiệu vấn đề xã hội “lối sống biết trân trọng những điều bình dị” được đặt ra trong tác phẩm Cơm mùi khói bếp của tác giả Hoàng Công Danh
+ Nêu quan điểm của người viết về vấn đề
Thân bài:
* Giải thích
– Trân trọng: thái độ nâng niu, coi trọng, điều bình dị: những điều nhỏ bé, giản dị xung quanh cuộc sống mỗi con người.
– Trân trọng những điều bình dị trong cuộc sống là thái độ coi trọng, nâng niu, trân quý những điều nhỏ bé, giản dị xung quanh cuộc sống mỗi con người.
* Bàn luận:
- Trân trọng những điều bình dị được đặt ra trong tác phẩm Cơm mùi khói bếp của tác giả Hoàng Công Danh
+ Điều bình dị trong tác phẩm là bữa cơm gia đình ấm áp trong dịp tết đến xuân về. Hình ảnh người mẹ già 60 tuổi vẫn nhóm bếp rơm để nấu nồi cơm có cháy.
+ Gia đình người con đã thực sự không biết trân trọng tình cảm, sự quan tâm của người mẹ.
- Trân trọng những điều bình dị trong cuộc sống
+ Con người thường chạy theo sự lớn lao, hào nhoáng mà quên mất đi những điều bình dị. Khi mất đi rồi thì ta mới thực sự nhận ra được giá trị của nó.
+ Trân trọng những điều bình dị là cách chúng ta thể hiện lòng biết ơn đối với cuộc sống, tạo thêm yêu thương và sự kết nối với cuộc sống đang diễn ra xung quanh, nhìn nhận cuộc đời tích cực, biết mở rộng tâm hồn, đón nhận cảm giác gần gũi, bình yên .…
- Bình luận về cách tác phẩm đặt ra và giải quyết vấn đề. Rút ra bài học nhận thức và hành động.
+ Tác giả Hoàng Công Danh để cho nhân vật người mẹ mất thì đứa con trai mới nhận ra được giá trị của những điều bình dị.
+ Truyện ngắn như một hồi chuông cảnh tỉnh thế hệ con cái về giá trị của tình thân.
+ Qua cách hành xử của gia đình người con trong truyện, bản thân mỗi chúng ta cần phải biết trân trọng những phút giây ở bên gia đình và cả những món quà rất đỗi bình thường của những người yêu thương ta.
Kết bài:
+ Khẳng định lại quan điểm của người viết về vấn đề
+ Đánh giá đóng góp của tác phẩm trong việc giải quyết vấn đề xã hội.
|
0,5
0,25
1,0
1,0
0,75
0,5
|
|
d. Chính tả, ngữ pháp
Đảm bảo chuẩn chính tả, ngữ pháp tiếng Việt.
|
0,25
|
|
e. Sáng tạo: Bài viết có giọng điệu riêng; cách diễn đạt sáng tạo, văn phong trôi chảy.
|
0,25
|
Tổng điểm
|
10,0
|